tiểu thuyết miền tây của tô hoài
Trong số tác phẩm viết về miền núi Tây Bắc sau 1955 của Tô Hoài, tiểu thuyết Miền Tây là tác phẩm nổi bật nhất. Miền Tây có cốt truyện xoay quanh sự đổi đời của gia đình bà Giàng Súa nhờ cách mạng. Cách mạng đã đem lại cho gia đình bà nhiều niềm vui giản dị trong
Nhà văn Tô Hoài đã đạt nhiều giải thưởng như: Giải Nhất của Hội Văn nghệ Việt Nam (1956, Truyện Tây Bắc); Giải A-Giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội (1970, tiểu thuyết Quê nhà); Giải thưởng của Hội Nhà văn Á-Phi (1970, tiểu thuyết Miền Tây); Giải thưởng Hồ Chí Minh
Tô Hoài muốn ghi nhận những chuyển biến những thành quả của miền đất quê hương của mình qua thời gian nhất là qua mốc lớn của xã hội. Sau Cách mạng tháng Tám đi kháng chiến theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc Tô Hoài có tác phẩm Truyện Tây Bắc được tặng giải
+ Giải thưởng của Hội Nhà văn Á - Phi năm 1970 (tiểu thuyết Miền Tây); + Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật (đợt 1 - 1996). + Giải Bùi Xuân Phái - Vì tình yêu Hà Nội 2010.
và tiểu thuyết "Miền Tây" : giải thưởng Hoa Sen của Hội nhà văn Á - Phi, 1971. 1.2.Quá trình chiếm lĩnh đề tài miền núi của Tô Hoài và Vị trí "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây" trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn.
Deutsch Als Fremdsprache Spiele Zum Kennenlernen. Giới thiệu tiểu sử của nhà văn Tô Hoài, một người dành suốt cuộc đời sáng tác văn học, yêu các loài vật và trẻ viết này được đăng tại không được copy dưới mọi hình thức. Một trong những cây bút xuất sắc nhất của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam đó chính là Tô Hoài. Ông không những là nhà văn nổi tiếng trong nước mà còn được rất nhiều thế hệ bạn đọc trên thế giới yêu thích và ngưỡng mộ. Từ khi bắt đầu cầm bút sáng tác ông đã luôn miệt mài phục vụ cho con người, đặc biệt là đối tượng thiếu nhi với những tác phẩm rất nổi tiếng viết về loài vật và trẻ con. 1. Tiểu sử nhà văn Tô Hoài Tô Hoài có tên khai sinh là Nguyễn Sen, sinh ngày 27 tháng 9 năm 1920 mất ngày 6 tháng 7 năm 2014. Ông sinh ra và lớn lên tại quê mẹ làng Nghĩa Đô, Từ Liêm thuộc phủ Hoài Đức xưa nay là phường Nghĩa Đô, Hà Nội.Bài viết này được đăng tại [free tuts .net] Bút danh Tô Hoài của ông được đặt từ hai địa danh nổi tiếng gắn bó cả tuổi thơ và những năm trai trẻ của ông là Phủ Hoài Đức và sông Tô Lịch. Ngoài bút danh là Tô Hoài, ông còn dùng thêm nhiều bút danh khác như Vũ Đột Kích, Mai Trang, Mắt Biển, Thái Yên, Hồng Hoa và Phạm Hòa. Thời niên thiếu của ông rất khó khăn cực khổ, nhưng với tính cần cù, chịu khó ông đã thử sức mình với rất nhiều nghề nghiệp khác nhau để sinh sống qua ngày từ dạy trẻ, bán hàng, thợ thủ công dệt lụa cho đến kế toán,... có cả những thời điểm ông thất nghiệp, không có việc làm. Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc, bắt đầu tham gia vào các phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp . Từ đây, ông hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực báo chí, văn hoá văn nghệ và đạt rất nhiều thành tựu xuất sắc. Sau năm 1945, Tô Hoài làm Chủ nhiệm báo “Cứu quốc” và là một trong số những nhà văn đầu tiên Nam tiến và tham dự một số chiến dịch ở mặt trận phía Nam. Năm 1946, ông được kết nạp vào Đảng. Đến năm 1950, ông về công tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam. Từ năm 1957 đến năm 1980, Tô Hoài được nắm giữ rất nhiều chức vụ khác nhau trong Hội Nhà văn như ủy viên Đảng Đoàn, Phó Tổng thư kí, Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội, Giám đốc Nhà xuất bản Thiếu nhi. Từ năm 1954 trở đi, ông bắt đầu tập trung vào sự nghiệp sáng tác của mình, nhanh chóng gặt hái thành công và được nhiều người yêu mến. 2. Sự nghiệp văn học của nhà văn Tô Hoài Tô Hoài là một nghệ sĩ rất đa tài, trong suốt sự nghiệp văn chương của mình ông đã miệt mài sáng tác hàng trăm tác phẩm thuộc đủ thể loại như tiểu thuyết, truyện vừa, bút ký, ký sự, truyện ngắn, hồi ký, tự truyện, tiểu luận phê bình, truyện viết cho thiếu nhi, cho đến cả các bài báo ngắn. Trước cách mạng tháng 8, văn học của ông chủ yếu viết về các loài vật và những câu chuyện về người dân nông thôn sống trong cảnh nghèo khổ. Một số tác phẩm tiêu biểu trong giai đoạn này là Dế Mèn phiêu lưu kí truyện, 1941 Quê người 1941 O chuột 1942 Giăng thề 1943 Nhà nghèo, Xóm giếng ngày xưa, Cỏ dại 1944 Trong đó, nổi bật nhất là truyện Dế Mèn phiêu lưu kí – một tác phẩm văn xuôi viết về loài vật miêu tả bức tranh thiên nhiên vô cùng sinh động và thú vị cùng rất nhiều bài học nhân sinh ý nghĩa được tác giả gửi gắm. Đây là một tác phẩm dành cho lứa tuổi thiếu nhi và đã được tái bản nhiều lần, được dịch và xuất bản ở một số nước trên thế giới. Sau cách mạng tháng 8, ông có những chuyển biến mạnh mẽ về phong cách và tư tưởng sáng tác với những tác phẩm phản ánh cuộc sống cơ cực của nhân dân dưới ách thống trị tàn bạo của của giặc xâm lược và con đường đến với cách mạng giải phóng của họ. Những tác phẩm tiêu biểu trong giai đoạn này là Vợ chồng A Phủ Núi cứu quốc 1948 Truyện Tây Bắc 1953 Mười năm 1957 Miền Tây 1967 Cát bụi chân ai 1992 Ba người khác 2006 Tất cả những sáng tác của ông đều được giới chuyên môn đánh giá rất cao bởi nội dung phong phú, hấp dẫn người đọc với lối kể chuyện vừa hồn nhiên, hóm hỉnh lại vừa sâu sắc. Trong sự nghiệp hoạt động nghệ thuật của mình,Tô Hoài đã nhận được rất nhiều giải thưởng danh giá được nhà nước trao tặng, cụ thể là Giải nhất Tiểu thuyết của Hội Văn nghệ Việt Nam 1956 Truyện Tây bắc Giải A Giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội 1970 tiểu thuyết Quê nhà Giải thưởng của Hội Nhà văn Á - Phi năm 1970 tiểu thuyết Miền Tây Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật đợt 1 - 1996 Giải Bùi Xuân Phái - Vì tình yêu Hà Nội 2010 Hiện tại ông đã xuất bản 200 đầu sách thuộc nhiều thể loại khác nhau và vinh dự trở thành là một trong số ít nhà văn hiện đại Việt Nam có nhiều đầu sách nhất từ xưa đến nay trong sự nghiệp sáng tác của mình. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương đồ sộ của Tô Hoài có rất ít tác giả nào sánh kịp. Ông đã để lại cho nền văn học nước nhà rất nhiều giá trị cao quý.
LỜI CẢM ƠN Trong quá trình hoàn thiện khóa luận này, chúng tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của các thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn, tổ bộ môn Văn học Việt Nam và ThS. Nguyễn Phƣơng Hà – giáo viên trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luận này. Do khả năng còn hạn chế và thời gian có hạn, chắc chắn khóa luận không tránh khỏi những thiếu xót, chúng tôi mong tiếp tục nhận được sự đóng góp của các thầy, cô và bạn bè để khóa luận được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 05 năm 2014 Sinh viên Dƣơng Thị Hạnh LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của ThS. Nguyễn Phƣơng Hà và không hề có sao chép, trùng lặp với bất kỳ công trình, tài liệu nào khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, tháng 05 năm 2014 Sinh viên Dƣơng Thị Hạnh MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 5 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 5 6. Đóng góp của khóa luận ............................................................................. 5 7. Cấu trúc của khóa luận ............................................................................... 5 NỘI DUNG ................................................................................................... 6 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................. 6 Thế giới nghệ thuật ................................................................................ 6 Tô Hoài – Hành trình sáng tác và phong cách nghệ thuật ....................... 7 Cuộc đời ...................................................................................... 7 Sự nghiệp sáng tác ...................................................................... 9 Phong cách nghệ thuật .............................................................. 11 Vị trí của tiểu thuyết Miền Tây trong sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài .. 14 CHƢƠNG 2 HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT MIỀN TÂY CỦA TÔ HOÀI ................................................................. 16 Khái niệm nhân vật ................................................................................ 16 Các loại hình nhân vật ........................................................................... 17 Những con người nghèo khổ, bất hạnh ...................................... 17 Những con buôn vụ lợi .............................................................. 20 Những người đại diện cho Cách mạng, Chính phủ .................... 23 CHƢƠNG 3 CÁC BIỂU HIỆN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT MIỀN TÂY ................................................................................. 26 Cốt truyện và kết cấu ............................................................................. 26 Cốt truyện ................................................................................. 26 Kết cấu ..................................................................................... 28 Ngôn ngữ............................................................................................... 30 Ngôn ngữ đối thoại mang đậm khẩu ngữ sinh hoạt.................... 30 Ngôn ngữ độc thoại ................................................................... 35 Nghệ thuật xây dựng nhân vật ............................................................... 37 Miêu tả ngoại hình .................................................................... 37 Miêu tả tâm lí ............................................................................ 41 Không gian và thời gian nghệ thuật ....................................................... 44 Không gian nghệ thuật.............................................................. 44 Thời gian nghệ thuật ................................................................. 47 KẾT LUẬN ................................................................................................. 52 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tô Hoài là nhà văn có vị trí đặc biệt trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông cầm bút từ khoảng những năm 40 của thế kỉ XX, nhanh chóng trưởng thành và trở thành cây bút gạo cội của văn xuôi hiện đại. Trải qua những mốc lịch sử quan trọng của đất nước, hành trình lao động nghệ thuật của Tô Hoài vẫn tiếp tục cho đến bây giờ. Với sức sáng tạo không ngừng, Tô Hoài đã tạo ra một khối lượng tác phẩm đồ sộ mà ít nhà văn nào sánh kịp. Sáng tác của Tô Hoài phong phú đa dạng về thể loại truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết, hồi kí, kịch bản phim… Ở thể loại nào ông cũng đạt được thành tựu rực rỡ và tạo được phong cách riêng. Tác phẩm của Tô Hoài tập trung ở một số đề tài lớn vùng quê ngoại thành Hà Nội, miền núi Tây Bắc – Việt Bắc trong kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội, sáng tác cho thiếu nhi, chân dung và hồi ức. Trong đó, miền núi là đề tài mà nhà văn rất tâm huyết. Có thể kể đến hàng loạt tác phẩm như Truyện Tây Bắc, Họ Giàng ở Phìn Sa, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ… tiêu biểu là tiểu thuyết Miền Tây. Bằng vốn sống, vốn hiểu biết cùng với khả năng quan sát và cảm nhận tinh tế của mình, Tô Hoài đã tái hiện hết sức sinh động bức tranh thiên nhiên và đời sống con người miền núi. Qua ngòi bút của nhà văn, các phong tục tập quán cũng như những nét văn hóa đẹp đẽ của người miền núi Việt Bắc nói riêng và Tây Bắc nói chung như hiện lên trước mắt và để lại ấn tượng trong lòng độc giả. Tô Hoài là tác giả văn học được giảng dạy, học tập trong nhiều cấp ở nhà trường của chúng ta hiện nay Đại học, Cao đẳng, THPT, THCS. Vì thế, nghiên cứu Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài giúp chúng ta hiểu đúng và cảm thụ tốt tác phẩm của ông là việc làm khoa học cần thiết và ý nghĩa. 1 2. Lịch sử vấn đề Tô Hoài là một trong số các tác giả lớn của nền văn học Việt Nam. Với phong cách nghệ thuật đặc sắc, ông đã khẳng định được vị trí của mình trên văn đàn. Hơn bảy mươi năm lao động nghệ thuật, ông cho ra đời hơn 160 đầu sách ở nhiều thể loại khác nhau như truyện ngắn, tiểu thuyết, tự truyện, kí, truyện thiếu nhi, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác. Nhiều tác phẩm của ông được giới nghiên cứu phê bình văn học quan tâm chú ý như Truyện Tây Bắc, Cát bụi chân ai, Quê người, Quê nhà… Đặc biệt phải kể đến tiểu thuyết Miền Tây. Tiểu thuyết Miền Tây ra đời năm 1967, là tác phẩm thuộc hệ thống các sáng tác về đề tài miền núi của Tô Hoài. Mặc dù là đứa con sinh sau nhưng Miền Tây vẫn gặt hái những thành công nhất định. Tiểu thuyết đã đoạt được giải thưởng Hoa sen của Hội nhà văn Á Phi năm 1970 và được giới chuyên môn đánh giá cao. Trong Lời giới thiệu tuyển tập Tô Hoài, GS. Hà Minh Đức khẳng định “Miền Tây là một tác phẩm có giá trị đánh dấu một thành tựu quan trọng của Tô Hoài về đề tài miền núi… Ông chú ý nhiều đến đặc điểm dân tộc của người H’mông từ phong tục tập quán sở thích đến diễn biến tâm lý của các nhân vật”. Điểm lại lịch sử nghiên cứu về tác giả và tác phẩm của Tô Hoài, tác giả Khái Vinh trong bài Đọc Miền Tây đăng trên báo Nhân dân ngày 25/5/1969 cũng cho rằng “Miền Tây là cuốn tiểu thuyết viết sinh động có nhiều chương tả cảnh hấp dẫn đặc biệt là những chương miêu tả về các phiên chợ Phìn Sa trước Cách mạng, về phong tục tập quán của đồng bào của các dân tộc vùng cao… Đọc Miền Tây người ta bị thu hút bởi thiên nhiên và phong tục, tập quán của đồng bào miền núi”. 2 Tác giả Nguyễn Văn Long trong bài Tô Hoài và một phong cách tiểu thuyết đăng trên trang đã viết “Cùng với vốn hiểu biết kỹ càng và nhiều mặt về các dân tộc ở Tây Bắc, tác giả đã khai thác nhiều tư liệu lịch sử, chính trị, quân sự, với ý đồ dựng lại sự vận động của lịch sử qua những biến đổi của cuộc sống, con người ở vùng Phìn Sa. Cuốn tiểu thuyết trình bày những bức tranh đối lập của hai thời kì xưa và nay trong cuộc sống và số phận những con người miền núi ở một vùng xa xôi … Đọc Tô Hoài người đọc tiếp xúc với vô số phong tục, tập tục từ sinh hoạt trong gia đình, trong nhà, đến những sinh hoạt cộng đồng, lễ hội, ma chay, cưới hỏi… ở rất nhiều vùng, từ làng quê ven thành, vùng đồng bằng Bắc Bộ đến vùng đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền núi, cả ở những xứ sở xa xôi ngoài biên giới. Bất cứ nhà dân tộc học, xã hội học nào cũng mong có được một vốn hiểu biết cực kỳ phong phú sinh động như của nhà văn Tô Hoài”. Với GS. Phan Cự Đệ trong bài Tô Hoài với Miền Tây đăng trên báo Văn nghệ số 268 cho rằng “Miền Tây phần nào thể hiện được đặc điểm phong cách Tô Hoài, bao giờ cũng cố gắng gắn liền chất liệu thực với màu sắc lãng mạn, trữ tình thơ mộng trong tác phẩm của mình… Tô Hoài đã cố gắng tạo cho các nhân vật của mình có một thứ riêng, ngôn ngữ phản ánh tính cách… Trong tiểu thuyết Miền Tây, ta bắt gặp một thứ ngôn ngữ trong sáng, giàu hình tượng của quần chúng được nâng lên ở một trình độ nghệ thuật mới”. Nhà văn Nguyễn Công Hoan trong bài Trau dồi tiếng Việt chú ý đến việc sử dụng ngôn ngữ trong tiểu thuyết Miền Tây “Theo dư luận mà tôi lượm lặt được ở phần lớn độc giả cuốn Miền Tây của Tô Hoài thì trong ngành truyện nhỏ và truyện dài của ta mấy chục năm nay chưa có một tác phẩm nào viết bằng văn xuôi mà gọt dũa tỉ mỉ từng chữ, từng câu làm cho những trang phảng phất một chất thơ mà nhiều bài thơ còn thua xa” [10, 520]. 3 Gần đây trong một số khóa luận, luận văn đã đề cập tới tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài Vũ Thị Thanh trong Khóa luận tốt nghiệp với đề tài Bản sắc văn hoá miền núi trong tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài đã khai thác vấn đề bản sắc văn hóa miền núi, đồng thời cũng đề cập khái quát về một số nhân vật chính và nhân vật phụ trong tác phẩm. Như vậy, nhìn lại lịch sử nghiên cứu tác phẩm của Tô Hoài đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khác nhau về tiểu thuyết Miền Tây ở các phương diện ngôn ngữ nghệ thuật, thế giới nhân vật… Tuy nhiên, những bài viết này chủ yếu là những đề cập riêng biệt, lẻ tẻ, có tính chất khai phá, gợi mở. Kế thừa những người đi trước, chúng tôi đi sâu nghiên cứu đề tài Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài với mục đích chứng minh, làm rõ hơn vấn đề trên, góp phần khẳng định phong cách nghệ thuật độc đáo cũng như những thành công về thể loại tiểu thuyết của Tô Hoài. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Với đề tài này, tác giả khóa luận hướng đến các mục đích sau Tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài trên các phương diện nhân vật, cốt truyện, kết cấu, ngôn ngữ, nghệ thuật xây dựng nhân vật, không gian, thời gian. Thấy được vị trí và những đóng góp quan trọng của Tô Hoài đối với quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc. Nhiệm vụ nghiên cứu Khóa luận đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau Tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài. Chỉ ra một số phương diện nghệ thuật thể hiện thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Miền Tây. 4 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu Như tên gọi của đề tài, chúng tôi đi sâu tìm hiểu Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài. Trong đó, người viết tập trung vào hai phương diện cơ bản Thế giới nhân vật và một số phương diện về hình thức nghệ thuật trong tiểu thuyết Miền Tây. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp, phạm vi mà chúng tôi khảo sát là tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài Tuyển tập Tô Hoài Tập 2, Nhà xuất bản Văn học, 1987. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong khóa luận này, người viết chủ yếu sử dụng các phương pháp Phương pháp thống kê Phương pháp phân tích, bình giảng Phương pháp tổng hợp, khái quát 6. Đóng góp của khóa luận Góp phần khẳng định tài năng và sự sáng tạo trong tư duy nghệ thuật của Tô Hoài. Đóng góp thiết thực vào việc giảng dạy, học tập các tác phẩm của Tô Hoài trong nhà trường. 7. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, nội dung khóa luận được triển khai thành ba chương Chương 1 Những vấn đề chung Chương 2 Hình tượng nhân vật trong tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài Chương 3 Các biểu hiện nghệ thuật trong tiểu thuyết Miền Tây 5 NỘI DUNG CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG Thế giới nghệ thuật Nhà văn Seđrin quan niệm “Tác phẩm văn học là một vũ trụ thu nhỏ, mỗi sản phẩm nghệ thuật là một thế giới khép kín trong bản thân nó”. Nói cách khác, một tác phẩm toàn vẹn phải xuất hiện như một thế giới nghệ thuật. Belinxki cũng từng nhận xét “Mọi sản phẩm nghệ thuật đều là một thế giới riêng mà khi đi vào đó thì ta buộc phải sống theo các quy luật của nó, hít thở không khí của nó”. Theo giáo trình Lí luận văn học, tác giả Trần Đình Sử cho rằng “Thế giới nghệ thuật là văn bản hình tượng – văn bản nội tại của văn bản ngôn từ. Gọi thế giới nghệ thuật là văn bản bởi các hình tượng có tính chất kí hiệu, có khả năng biểu hiện một phức hợp ý nghĩa – tư tưởng nhất định mà người ta cần đọc từng bộ phận, chi tiết để nhận ra. Gọi bằng thế giới nghệ thuật bởi vì đó là cấu tạo đặc biệt, có sự thống nhất không tách rời, vừa có sự phản ánh thực tại, vừa có sự tưởng tượng sáng tạo của tác giả, có sự khúc xạ thế giới bên trong nhà văn. Thế giới nghệ thuật là một thế giới kép thế giới được miêu tả và thế giới miêu tả. Thế giới được miêu tả gồm nhân vật, sự kiện, cảnh vật…Thế giới miêu tả là thế giới của người kể chuyện, người trữ tình. Hai thế giới này gắn kết không tách rời như hai mặt của một tờ giấy. Tuy nhiên chúng không thể liên thông” [9, 81]. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi cho rằng “Thế giới nghệ thuật là khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật một tác phẩm, một loại hình tác phẩm, sáng tác của tác giả, một trào 6 lưu. Thế giới nghệ thuật nhấn mạnh rằng sáng tác nghệ thuật là một thế giới riêng được sáng tạo ra theo các nguyên tắc tư tưởng, khác với thế giới thực tại vật chất hay thế giới tâm lí của con người, mặc dù nó phản ánh các thế giới ấy” [4, 302]. Có thể thấy, thế giới nghệ thuật trong văn học phản ánh vũ trụ và con người theo cách riêng của nó. Nhà văn – người nghệ sĩ muốn khẳng định tài năng, cá tính riêng của mình thì phải tạo ra được thế giới nghệ thuật riêng. Nó bao gồm không gian, thời gian riêng, quy luật tâm lí và quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức, thang bậc giá trị riêng… và xuất hiện một cách ước lệ trong sáng tác nghệ thuật. Như vậy, mỗi thế giới nghệ thuật ứng với quan niệm riêng về thế giới, cắt nghĩa về thế giới, giúp ta hình dung tính độc đáo về tư duy nghệ thuật và cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Mặt khác, văn học lấy chất liệu là hiện thực khách quan song mỗi nhà văn lại có cái nhìn và cảm nhận khác nhau. Vì thế, mỗi tác phẩm sẽ là một thế giới nghệ thuật riêng, nó đặt ra nhiệm vụ cho người tiếp nhận là phải tìm hiểu để có thể bước vào thế giới của tác phẩm. Có thể kể đến các yếu tố biểu hiện của thế giới nghệ thuật như không gian, thời gian nghệ thuật, nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu… Khi nghiên cứu bất kì một tác phẩm văn học nào, việc tìm hiểu thế giới nghệ thuật là điều cần thiết. Nó sẽ giúp người đọc phần nào hiểu được quan niệm nghệ thuật, ý đồ, mục đích sáng tạo của tác giả. Vì thế, tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài cũng không nằm ngoài mục đích đó. Tô Hoài – Hành trình sáng tác và phong cách nghệ thuật Cuộc đời Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh năm 1920 tại quê ngoại – làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội. 7 Ông sinh trưởng trong một gia đình thợ thủ công nghèo. Bút danh Tô Hoài cũng xuất phát từ hai địa danh sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức quê ngoại nhà văn. Thuở nhỏ, Tô Hoài chỉ được học hết tiểu học rồi sớm trở thành anh thợ cửi như bao thanh niên khác. Sau đó, ông phải kiếm sống bằng nhiều nghề khác nhau bán hàng, dạy học tư, coi kho, kế toán hiệu buôn… trải qua những ngày tháng thất nghiệp tủi nhục không một đồng xu dính túi. Cuộc sống khổ cực được Tô Hoài tái hiện qua cuốn Tự truyện bằng nỗi xót xa và cay đắng “Ngày ngày tôi cuốc bộ vào thành phố tha thẩn ở các vườn hoa. Tôi xem kiến bò đến tận hôm tôi có thể phân biệt rạch ròi ra từng loại kiến xây tổ khác nhau”. Chính hoàn cảnh xuất thân, cuộc sống khó khăn của gia đình… đã tác động sâu sắc đến Tô Hoài khiến ông có sự đồng cảm với những số phận bé nhỏ, kiếp người lao động vất vả trong xã hội. Đồng thời, đây cũng là những kiến thức thực tế trong những trang viết đầy tính chân thực của nhà văn sau này. Tô Hoài đến với nghề văn hết sức tự nhiên. Ông viết văn bằng vốn sống trực tiếp với sự thôi thúc từ bên trong của tâm hồn chứa chan cảm xúc. Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn trong bài Tô Hoài và những nghiêm chỉnh của kiếp phù du khẳng định “Cảm tưởng như bao nhiêu kinh nghiệm hàng ngày, trước sau đều được nhà văn đưa hết vào trang giấy. Ông sống để viết và phải viết, như phải ăn phải uống”. Tô Hoài viết rất nhiều, dường như những câu chuyện của ông không bao giờ vơi cạn. Càng viết, nhà văn càng chứng tỏ năng lực của mình, sự hăng say và sáng tạo... Tô Hoài sớm tham gia hoạt động chính trị. Trước cách mạng tháng Tám, ông tham gia Hội Văn hóa cứu quốc, hoạt động tuyên truyền Việt Minh, viết báo bí mật. Sau năm 1945, Tô Hoài làm báo Cứu quốc – cơ quan của Tổng bộ Việt Minh. Tháng 10 năm 1946, ông được vinh dự đứng trong hàng 8 ngũ của Đảng Cộng Sản. Từ đây ông càng tham gia tích cực hơn vào các hoạt động cách mạng. Năm 1957, Tô Hoài được bầu làm Tổng thư kí của Hội, rồi giữ chức chủ tịch Hội Văn nghệ Việt Nam. Không chỉ có vậy, ông còn tham gia các hoạt động xã hội khác như đại biểu Quốc hội khóa VII, Phó chủ tịch ủy ban đoàn kết Á – Phi, Phó chủ tịch Hội hữu nghị Việt – Ấn, Ủy viên Ban Chấp Hành Hội hữu nghị Việt – Xô. Chính quá trình tham gia hoạt động cách mạng và giữ nhiều trọng trách khác nhau đã giúp Tô Hoài gắn bó khăng khít hơn với quần chúng nhân dân đặc biệt là người lao động. Vốn hiểu biết cùng với sự từng trải đó đã trở thành nguồn tư liệu quý giá cho cuộc đời viết văn của ông sau này. Tô Hoài vinh dự được Nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I năm 1996. Sự nghiệp sáng tác Trƣớc Cách mạng tháng Tám Tô Hoài là cây bút tiêu biểu cho văn xuôi hiện thực, thành công ở nhiều thể loại + Truyện ngắn Dế mèn phiêu lưu ký 1941, O Chuột 1942, Giăng thề 1943, Nhà nghèo 1944, Xóm Giếng ngày xưa 1944 + Hồi kí Cỏ dại 1944 + Tiểu thuyết Quê người 1941 Sáng tác của Tô Hoài thời kì này tập trung vào hai mảng đề tài truyện đồng thoại về loài vật và truyện về nông thôn trong cảnh đói nghèo. Truyện viết về loài vật của Tô Hoài có một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Tác phẩm đầu tay Dế mèn phiêu lưu ký là một thành công xuất sắc của Tô Hoài, khẳng định vị trí của ông trên văn đàn. Viết về loài vật, Tô Hoài tìm đến hình thức sáng tác đồng thoại. Ông đã 9 viết về thế giới loài vật trong cảm quan sinh hoạt, phong tục như đời sống của con người. Bên cạnh truyện viết về loài vật, đề tài miêu tả cảnh đói nghèo của người dân ở vùng ven Hà Nội, sống bằng nghề dệt thủ công, cũng được nhà văn đã miêu tả chân thật và sinh động. Cuộc sống cùng quẫn bế tắc của những những người nông dân, thợ thủ công quanh năm lam lũ, điêu đứng vì miếng cơm manh áo, phiêu bạt nơi đất khách quê người. Có thể kể đến những tác phẩm như Nhà nghèo, Ông Cúm bà Co, Xóm Giếng ngày xưa… Với cái nhìn khách quan, chân thực, mỗi tác phẩm của Tô Hoài đều là minh chứng phản ánh cuộc sống nghèo đói, lạc hậu bấp bênh của người dân nghèo trước Cách mạng. Qua đó, Tô Hoài đã khẳng định được vị trí của một nhà văn hiện thực. Ở đề tài nào và đối tượng phản ánh nào, thế giới nghệ thuật của ông đều thấm đượm tính nhân văn. Sau cách mạng tháng Tám Cách mạng tháng Tám đánh dấu một bước chuyển biến trong tư tưởng và sáng tác của Tô Hoài. Ông đã nhanh chóng nắm bắt kịp thời các vấn đề mới của đời sống và sáng tác thành công ở nhiều thể loại khác nhau + Truyện ngắn Núi cứu quốc 1948, Xuống làng 1950, Truyện Tây Bắc 1953, Khác trước 1957, Vỡ tỉnh 1962, Người ven thành 1972, Người một mình 1998… + Truyện thiếu nhi Tuyển tập Văn học thiếu nhi, tập I & II 1999 + Tiểu thuyết Mười năm 1957, Miền Tây 1967, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ 1971, Đảo hoang 1976, Những ngõ phố, người đường phố 1980, Quê nhà 1981, Họ Giàng ở Phìn Sa 1984, Nhớ Mai Châu 1988. + Kí Đại đội Thắng Bình 1950, Nhật kí vùng cao 1969, Lăng Bác Hồ 1977, Tự truyện 1978, Hoa hồng vàng song cửa 1981, Cát bụi chân 10 ai 1992, Chuyện cũ Hà Nội 1998, Chiều chiều 1999, Ba người khác 2006… + Tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác Một số kinh nghiệm viết văn của tôi 1959, Người bạn đọc ấy 1963, Sổ tay viết văn 1977, Nghệ thuật và phương pháp viết văn 1997. Giai đoạn này, Tô Hoài không bó hẹp nội dung và đối tượng phản ánh trong phạm vi của một vùng dân nghèo ngoại thành Hà Nội mà ông còn hướng đến một không gian rộng lớn hơn. Đó là cuộc sống của nhiều lớp người, nhiều vùng đất khác nhau, nổi bật nhất là miền núi Tây Bắc. Tô Hoài viết về Tây Bắc không chỉ bằng tài năng nghệ thuật, vốn sống phong phú, mà còn bằng cả tình yêu đằm thắm thiết tha như chính quê hương mình. Tiêu biểu cho mảng sáng tác về đề tài miền núi có thể kể đến Núi cứu quốc, Truyện Tây Bắc và đặc biệt là tiểu thuyết Miền Tây. Không chỉ thành công ở thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết, Tô Hoài còn đạt được thành tựu đặc sắc ở thể kí và hồi kí Cát bụi chân ai, Nhật kí vùng cao, Lên Sùng Đô, Tự truyện… Qua các tác phẩm, người đọc nhận ra nhà văn đã đặt đời sống vào điểm nhìn cá nhân, cái nhìn về đời sống về con người được dân chủ hóa. Tóm lại, toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài đã khẳng định được vị trí và tài năng nghệ thuật của ông trước hiện thực của cuộc đời mới. Ông xứng đáng là một tấm gương trong sáng trong lao động nghệ thuật, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phong cách nghệ thuật Hoàn cảnh gia đình, xã hội, bản thân đã đưa Tô Hoài đến với nghề văn. Ông cho rằng văn học có khả năng nói được những điều giản dị của đời sống xung quanh, những trải nghiệm cơm áo hàng ngày. Mọi chuyện vui buồn trong đời sống sinh hoạt đều được nhà văn chuyển tải lên trang giấy. Bạn bè, 11 hàng xóm… đều có thể bắt gặp câu chuyện, lời nói của họ trong sáng tác của ông. Bởi “người ta nói thế nào tôi cứ theo thế mà xào xáo thành văn… tôi biết rất rõ tiếng này chính ngày trước ai hay nói, bà tôi, mẹ tôi, ông hàng xóm…” [8, 152]. Ông luôn có ý thức sâu sắc học tập lời ăn, tiếng nói của quần chúng nhân dân lao động. Trong khi các nhà văn hiện thực quan niệm tiểu thuyết phải là sự thực ở đời, phản ánh đời sống qua xung đột giai cấp, quan hệ giàu nghèo thì sáng tác của Tô Hoài chủ yếu vẫn nhìn con người ở góc độ đời tư. Họ là những người lao động nhỏ bé, giản dị gắn với cuộc sống đời thường. Theo Tô Hoài, con người trước khi là một ai đó thì trước hết phải là chính mình với tất cả những gì mà tạo hoá đã ban tặng; cũng vui buồn, đau khổ, hạnh phúc, cũng có mặt tốt và mặt xấu. Ông không chỉ nêu ra những thói hư tật xấu của con người mà còn gián tiếp khẳng định ẩn sâu trong mỗi con người luôn có mặt tốt đẹp làm nền tảng đạo đức. Điều đó được phản ánh qua tác phẩm Quê người. Nhân vật Thoại đánh liều ra đồng bắt trộm chó không thành nên vợ chồng con cái đùm dúm dắt nhau đi lang bạt nơi đất khách quê người. Lão lái Khế Khách nợ hạch sách, dọa nạt, moi tiền con nợ bằng nhiều mẹo vặt, nhưng lão vẫn còn nhận ra cảnh cùng kiệt của nhà Hương Cay. Rõ ràng, con người tha hóa trong văn Tô Hoài không hoàn toàn biến chất. Con người trong sáng tác của Tô Hoài hiện lên như những số kiếp tự nhiên, dường như muôn thuở họ phải đối mặt với những chuyện mưu sinh, cơm áo gạo tiền… Viết về những kiếp người lao động nhỏ bé, bình dị xung quanh cuộc sống của mình, nhà văn dường như am hiểu tâm lý, tư tưởng tình cảm của họ. Những câu chuyện, con người đó hiện lên sinh động, sắc nét trong trang văn của Tô Hoài. Đó là thân phận của bà lão Vối Mẹ già buộc lòng nhẫn nhục sống nương nhờ vào con. Đó là số phận khổ cực của anh Duyện Nhà nghèo quanh năm điêu đứng vì miếng cơm manh áo. 12 Khi viết về những người chiến sĩ hoạt động cách mạng, Tô Hoài cũng ít khi lí tưởng hóa vẻ đẹp ngoại hình hoặc phẩm chất tính cách mà dưới ngòi bút của ông họ vừa có phẩm chất, vừa có thói tật, vừa có cái xấu, cái tốt như một con người bình thường. Họ cũng chỉ là những con người giữa đời thường, cũng vất vả, cũng nhút nhát… Vì thế, nhân vật trong văn Tô Hoài rất bình dị, thân thuộc với độc giả. Có thể kể đến nhân vật Nghĩa Miền Tây, A Châu Vợ chồng A Phủ, Đức Xuân Núi cứu quốc… Viết về thế giới loài vật, những trang văn được Tô Hoài miêu tả cũng rất gần gũi, đời thường. Ông viết về chuồn chuồn kim, gi đá, dế mèn, chim chóc… Đó những con vật bé nhỏ, “xoàng xĩnh” nhất nhưng nó rất gần gũi với cuộc sống sinh hoạt của con người, mang tính cách, số phận như con người. Đó là mụ Ngan trong tác phẩm cùng tên, tính nết vô tâm đần độn quá, tranh ăn với cả lũ con thơ; là Gà mái Một cuộc bể dâu vừa là “một người đàn bà giỏi giang … Một bậc mẹ hiền gương mẫu”. Vợ chồng Gi đá Đôi Gi đá chăm chỉ không quản gió mưa, cần mẫn “làm nhà” trên cây hồng bì. Bên cạnh đó, Tô Hoài cũng chú ý miêu tả cuộc sống sinh hoạt, những phong tục quen thuộc của từng vùng quê, từng gia đình, từng con người. Ông ít tập trung vào những mâu thuẫn xã hội mang tính đối kháng quyết liệt, mà đi sâu phản ánh cuộc sống sinh hoạt với những phong tục, tập tục nơi chôn rau cắt rốn. Đó cũng là nơi những người nông dân, thợ thủ công cùng ở một làng cùng làm một nghề, cùng quan tâm đến những buồn vui, tốt xấu trong cuộc sống theo quy luật tự nhiên của nó. Trong văn Tô Hoài luôn lưu giữ một kho kiến thức về phong tục tập quán của người Việt, nếu tước bỏ đi ý nghĩa phong tục thì tác phẩm sẽ không còn vẻ hấp dẫn vốn có nữa. Đó là nạn tảo hôn Vợ chồng trẻ con, ma chay, cưới xin Quê người, tục cướp vợ, cho vay lãi, trình ma Vợ chồng A Phủ, phạt vạ Cứu đất cứu Mường, tục đấu vật, bắn nỏ Nỏ thần… 13 Không chỉ có vậy, thiên nhiên trong văn Tô Hoài cũng được miêu tả như trong cuộc sống thực. Đó không chỉ là hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ với những màu sắc rực rỡ của cỏ cây hoa lá Miền Tây, Nỏ thần, Đảo hoang…, mà còn là hình ảnh thiên nhiên dữ dội, khắc nghiệt, đem đến không ít những hiểm nguy cho con người Miền Tây, Nhớ Mai Châu…. Bằng sự cảm thông, lòng yêu mến đối với những con người sống xung quanh mình, Tô Hoài đã khá tinh tế và sâu sắc khi phản ánh cuộc sống và con người đời thường trong mỗi trang viết. Qua các tác phẩm của mình, nhà văn đã thể hiện cách nhìn về đời sống, cách nhìn nhận về con người tạo nên quan niệm nghệ thuật về hiện thực đời thường; quan niệm nghệ thuật về sinh hoạt, phong tục. Điều đó đã tạo nên phong cách nghệ thuật Tô Hoài. Vị trí của tiểu thuyết Miền Tây trong sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài Tiểu thuyết Miền Tây ra đời năm 1967. Lúc bấy giờ, miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tiến hành xây dựng xã hội chủ nghĩa làm hậu phương vững chắc cho miền Nam đấu tranh giành độc lập. Tác phẩm kể về gia đình bà Giàng Súa và những người dân ở Phìn Sa thuộc miền núi Tây Bắc. Nhân vật chính là bà Giàng Súa. Chồng chết khi đi phu cho quan, bốn mẹ con bị hàng xóm cho là có ma nên hắt hủi, xua đuổi phải dắt díu nhau chạy trốn vào rừng sống chui lủi. Cách mạng thành công, bà Giàng Súa trở về được sống trong tình thương và sự đùm bọc của làng xóm, Đảng, Chính phủ. Bà tự hào vì sự trưởng thành của các con. Thào Khay trở thành y sĩ, là một cán bộ gương mẫu của Đảng, giữ trọng trách trong châu ủy Châu Yên. Thào Mỵ được cử xuống Hà Nội học y, cống hiến và phục vụ nhân dân, Tổ quốc. Trước cách mạng, cuộc sống của người dân ở miền núi thường được các nhà văn thi vị hóa. Dưới ngòi bút của họ, cuộc sống trên những vùng cao là một thế giới riêng biệt, khác hẳn với chốn phồn hoa đô thị. Đó là một thế giới đầy mơ mộng vớ những cô gái dân tộc xinh đẹp, thuần hậu, những phiên 14 chợ tình đầy sức hấp dẫn. Với tiểu thuyết Miền Tây, Tô Hoài đã cho người đọc thấy thế giới mơ mộng ấy chính là nơi chứa đầy những hủ tục, tục lệ lạc hậu. Trong đó bọn cường hào, thống lý ra sức bóc lột áp bức nông dân. Bằng vốn sống phong phú cùng sự hiểu biết sâu sắc về đồng bào miền núi, nhà văn dùng ngòi bút kịch liệt lên án các hủ tục, tục lệ lạc hậu, thối nát ở miền núi, đồng thời phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp ở các vùng cao trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời qua tiểu thuyết Miền Tây, Tô Hoài cũng khẳng định vai trò, sức mạnh của Cách mạng đã làm thay đổi cuộc sống tăm tối, tù túng của người đồng bào miền núi, giúp họ thoát khỏi những quan niệm, hủ tục lạc hậu để xây dựng cho quê hương, đất nước. 15 CHƢƠNG 2 HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT MIỀN TÂY CỦA TÔ HOÀI Khái niệm nhân vật Có thể thấy, nhân vật là yếu tố trung tâm thuộc cấu trúc của tác phẩm văn học. Nó có vai trò quan trọng trong việc tái hiện hiện thực xã hội và thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Nhân vật còn là nơi nhà văn thể hiện quan niệm nghệ thuật và lí tưởng thẩm mỹ của chính bản thân mình về con người. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi cho rằng Nhân vật văn học là “con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng cũng có thể không có tên riêng… thể hiện quan niệm nghệ thuật và liên tưởng thẩm mĩ của nhà văn về con người. Vì thế nhân vật luôn gắn chặt với chủ đề của tác phẩm. Nhân vật văn học được miêu tả qua các biến cố, xung đột, mâu thuẫn và mọi chi tiết các loại. Đó là mâu thuẫn nội tâm của nhân vật, mâu thuẫn giữa nhân vật này với nhân vật kia, giữa tuyến nhân vật này với tuyến nhân vật khác. Cho nên nhân vật luôn luôn gắn liền với cốt truyện” [4, 235]. Khái niệm nhân vật còn được định nghĩa trong giáo trình Lí luận văn học Hà Minh Đức chủ biên “Nhân vật văn học là một hiện tượng nghệ thuật mang tính ước lệ, đó không phải là sự sao chụp đầy đủ mọi chi tiết biểu hiện của con người mà chỉ là sự thể hiện con người qua những đặc điểm điển hình về tiểu sử, nghề nghiệp, tính cách… và cần chú ý thêm rằng thực ra khái niệm nhân vật thường được quan niệm với một phạm vi rộng hơn nhiều, đó không chỉ là con người, những con người có tên hoặc không tên, được khắc họa sâu đậm, hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm, mà còn có thể là những sự vật, loài 16
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGUYỄN PHÚ BÌNH BẢN SẮC DÂN TỘC MIỀN NÚI TRONG "TRUYỆN TÂY BẮC" VÀ "MIỀN TÂY" CỦA TÔ HOÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN - Thành phố Hồ Chí Minh 1996 - MỤC LỤC MỤC LỤC ......................................................................................................................... 3 PHẦN DẪN LUẬN ........................................................................................................... 5 I./QUAN NIỆM VỀ ĐỀ TÀI .................................................................................................. 5 II./LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ........................................................................................................... 8 III./ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN ....................................................................................... 9 IV./ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................................................. 10 pháp phân tích - Tông hợp ................................................................................ 10 pháp so sánh ...................................................................................................... 10 pháp thống kê - hệ thống................................................................................... 10 V./ CÂU TRÚC CỦA LUẬN VĂN ........................................................................................ 11 CHƯƠNG 1 TÔ HOÀI VỚI ĐỀ TÀI MIỀN NÚI ..................................................... 13 tài miền núi trong văn học. ........................................................................................ 13 trình chiếm lĩnh đề tài miền núi của Tô Hoài và Vị trí "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây" trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. ............................................................ 14 CHƯƠNG 2 VẤN ĐỀ BẢN SẮC DÂN TỘC ............................................................. 19 đề bản sắc dân tộc và sự thể hiện bản sắc dân tộc trong văn học ........................ 19 đề bản sắc dân tộc ............................................................................................. 19 thể hiện bản sắc dân tộc trong tác phẩm văn học ................................................ 20 Bắc miền núi giàu bản sắc. ..................................................................................... 24 CHƯƠNG 3 BẢN SẮC DÂN TỘC MIỀN NÚI TRONG "TRUYỆN TÂY BẮC" VÀ "MIỀN TÂY" CỦA TÔ HOÀI............................................................................... 29 chất cuộc sống và con người miền núi Tây Bắc qua "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây" của Tô Hoài ................................................................................................................. 29 3 sắc miền núi qua những bức tranh sinh động về cảnh đời cùng những điển hình chân thực về số phận người nông dân miền núi trong “Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây" ................................................................................................................................................. 40 sắc miền núi trong cuộc đấu tranh chống các thế lực thống trị, giành quyền sống và vươn tới cuộc đời hạnh phúc, qua "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây" ......................... 48 4 PHẦN DẪN LUẬN I./QUAN NIỆM VỀ ĐỀ TÀI 1. Tô Hoài là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn học việt Nam hiện đại. Hơn nửa thế kỷ cầm bút, tính đến nay, ông đã có một khối lượng tác phẩm nhiều đáng khâm phục hơn một trăm tác phẩm thuộc nhiều đề tài và thể loại; trong đó có nhiều trang viết khá chất lượng, có giá trị hình thành phong cách nghệ thuật của ông, đồng thời góp phần không nhỏ trong sự phát triền chung của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Tô Hoài bước vào làng văn khá sớm. Lúc đầu ông làm thơ, nhưng hầu như không có thành tựu gì đáng kể. Ngoài hai bài thơ "Đan áo" và "Tiếng reo" đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy còn thì hầu hết là những vần thơ lãng mạn, rỗng và sáo. Con đường của Tô Hoài là con đường văn xuôi. Ông viết từ năm 16 tuổi và ngay trong giai đoạn đầu 1936-1939 đã có truyện ngắn đăng ở báo Nước Nam, Tiểu thuyết thứ bảy, Tiểu thuyết thứ năm, Hà Nội tân văn Nước lên, Bụi ô tô, Một đêm sáng trăng suông, Bệnh già, Trê cóc ... Cũng trong thời gian này ông đã thực hiện "Một chuyến đi" vào miền Trung và Nam Bộ, vừa đi, quan sát, vừa viết. Sau chuyến đi này, năm 1941, thiên đồng thoại "Dế mèn phiêu lưu ký" ra đời, nổi lên như một hiện tượng văn học độc đáo, bộc lộ rõ thiên hướng và tài năng văn chương ở ông, khẳng định vị trí văn học của ông trong làng văn đương thời, cũng như trong lịch sử văn học sau này. Điểm qua các tác phẩm chủ yếu của Tô Hoài trước Cách mạng tháng 8 Giăng thề 1941, Dế mèn phiêu lưu ký 1941, Quê người 1942, O chuột 1942, Nhà nghèo 1942, Xóm Giếng ngày xưa 1944, Cỏ dại 1944 ta thấy tác giả hướng ngòi bút vào hai mảng đề tài chính viết về vùng quê ngoại - Nghĩa Đô với những người nông dân, thợ thủ công nghèo, lam lũ và viết về loài vật những con vật hiền lành, bé nhỏ gần gũi với sinh hoạt của con người. Những trang viết này thể hiện rõ nét đặc sắc của ngồi bút Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám "Một tâm hồn gắn bó với quê nghèo, hiển hòa bình lăng, với những người áo nâu chân lấm. Ông biết tìm cái đẹp, cái giản dị trong khung cảnh đơn sơ rất đời ở Việt Nam, trong những con người bé nhỏ, chất phác, nghĩa tình và thông cảm với niềm vui, nỗi đau thường trực của họ" 1. 1 Trần Hữu Tá -Văn học Việt Nam 1945-1975 Chương XII. Tô Hoài. Tập 2 NXB Giáo dục. 1990, trang 175 5 Cách mạng tháng Tám đánh dấu một bước chuyển rõ rệt trong tư tưởng và sáng tác của Tô Hoài. So với nhiều nhà văn cùng thời, Tô Hoài sớm vượt qua thời kỳ "nhận đường" để nhanh chóng tiếp cận các vấn đề mới của đời sống và hướng ngòi bút của mình vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Trong giai đoạn này, nhịp độ sáng tạo nghệ thuật của Tô Hoài ngày càng tăng tiến cả về số lượng lẫn chất lượng nghệ thuật, ông viết nhiều, viết đều tay và thành công nhiều thể loại. Những tác phẩm của ông sau 1945 có thể kể về truyện ngắn và tiểu thuyết có Lão đồng chí, Núi cứu quốc, Xuống làng, Truyện Tây bắc, Khác trước, Mười năm, Vô tình, Miền Tây, Người ven thành, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Tự truyện, Những ngõ phố, Người đường phố, Họ Giàng ở Phìn-sa, Quê nhà ; về ký có Đại đội Thăng Bình, Thành phố Lê-nin, Tôi thăm Cam-pu-chia, Nhật ký vùng cao, Lăng Bác Hồ, Trái đất tên người, Hoa hồng vàng song cửa, Mùa thu Lu-ang-pha-bang, Nhớ Mai Châu, Cát bụi Châu Ái ... và hàng loạt truyện, kịch truyện phim, kịch múa rối, hoạt họa cho thiếu nhi Kim Đồng, Vừ A Dính, Ông Gióng, Con mèo lười, Trâu hóc, Đảo hoang, Sự tích Thăng Long, Chim chích lạc rừng, Đàn chim gáy Điểm qua quá trình sáng tác của Tô Hoài gần 60 năm qua, tôi thấy ông không chỉ là nhà văn viết nhiều về số lượng và thể loại, mà còn là một trong những nhà văn viết nhiều đề tài; trong đó thành tựu nổi bật nhất có giá trị khẳng định tài năng và phong cách nghệ thuật của ông tập trung phần lớn vào hai mảng đề tài viết về loài vật và viết về miền núi Nói đến phong cách Tô Hoài, ta nghĩ ngay đến Tô Hoài của truyện loài vật và Tô Hoài của vùng cao Tây Bắc. Đặc biệt đáng lưu ý ở Tô Hoài sau Cách mang tháng Tám là đề tài miền núi, một đề tài đã thu hút tâm lực, tình cảm của ông nhiều hơn cả, đồng thời cũng mang đến cho ông thành công nhiều hơn cả, một đề tài sáng tác gần hơn với tên tuổi nhà văn, hơn nửa thế kỷ qua, đã giúp nhà văn cắm những cái mốc quan trọng trong cuộc đời sống tác. Có thể khẳng định rằng những thành tựu chủ yếu của Tô Hoài trong quá trình chuyển biến từ một nhà văn hiện thực phê phán sang nhà văn hiện thực xã hội chủ nghĩa tập trung phần lớn vào đề tài miền núi. Tìm hiểu Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám, không thể không tìm hiểu quá trình sáng tác và những thành tựu về đề tài miền núi của ông với hai tác phẩm tiêu biểu Truyện Tây Bắc 1953 - Giải nhất về tiểu thuyết, giải thưởng văn học 1954-1955 của Hội Văn nghệ Việt Nam và Miền Tây 1967 - Giải thưởng Hoa Sen của Hội nhà văn Á-Phi 1971 6 2. Một đặc điểm nổi bật trong phong cách sáng tác Tô Hoài đó là nghệ thuật thể hiện bản sắc dân tộc. Ông là một nhà văn có biệt tài về miêu tả phong tục với một cảm quan nghệ thuật đặc biệt nhạy bén, sâu sắc, tinh tế. Những trang viết của ông ở mọi đề tài đều thấm đượm màu sắc dân tộc, rất gần gũi với đời sống và tâm hồn dân tộc. Đúng như Hà Minh Đức nhận xét "Đặc điểm đầu tiên dễ nhận thấy qua những sáng tác của Tô Hoài là tính dân tộc rõ nét và đậm sắc thái. Có thể nói rằng tất cả những cái ông viết ra đều thuộc về phần bản chất và tiêu biểu của đời sống dân tộc”. 1 Đặc điểm này có thể thấy bàng bạc trong hàng loạt tác phẩm của ông ở nhiều đề tài đề tài làng quê Việt Nam Quê người, Quê nhà, Mười năm, trong các tiểu thuyết dựa vào các truyền thuyết cổ Đất hoang, Nhà Chử, tiểu thuyết viết về người thật, việc thật Hoàng Văn Thụ, Vừ A Dính, hoặc trong các tác phẩm ký viết về nước ngoài Thành phố Lênin, Tôi thăm Campuchia, Trái đất tên Người, Hoa hồng vàng, Song cửa, Mùa thu Lu-ang-phabang, Kỷ niệm Ấn Độ Đặc biệt trong những sáng tác về đề tài miền núi, bản sắc dân tộc miền núi Tây Bắc đã được Tô Hoài thể hiện đậm nét. Tất nhiên, không phải ngay từ đầu ông đã có được những thành công đó. Trong tập truyện ngắn đầu tay "Núi cứu quốc" khi đi vào miêu tả con người và cảnh vật vùng cao, Tô Hoài đã rơi vào xu hướng tản mạn, tham lam nhiều chỉ tiết lạ. Chỉ đến "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây" nhược điểm này mới được khắc phục, bản sắc dân tộc miền núi được thể hiện rõ nét, bằng một nghệ thuật thể hiện độc đáo, khẳng định phong cách cùng những cống hiến to lớn của ông trong đề tài này. Từ trước đến nay, tìm hiểu Tô Hoài với tư cách là một nhà văn hiện thực XHCN, phần căn bản nhất là tìm hiểu đề tài miền núi. Tìm hiểu đề tài miền núi trong sáng tác của Tô Hoài căn bản là tìm hiểu giá trị "Truyện Tây Bắc” và "Miền Tây” trong đó vấn để bản sắc dân tộc là một giá trị lớn cẩn được đi sâu nghiên cứu và thẩm định đúng mức. 1 Hà Minh Đức -Lời giới thiệu "Tuyển tập Tô Hoài", Tập I, NXB Văn học, 1987, trang 31 7 II./LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Việc tìm hiểu, nghiên cứu những thành tựu và đóng góp của Tô Hoài về đề tài miền núi không phải là công việc mới xưa nay. Riêng với "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây" đến nay đã có khá nhiều chuyên luận, bài phê bình, khảo cứu đề cập, khai thác ở nhiều phương diện phong phú. Có thể kể trong các giáo trình đại học, tiêu biểu là các chương viết của các giáo sư Huỳnh Lý giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam, Tập 6, Đại học Sư Phạm, giáo sư Hoàng Như Mai giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại 1945-1975, Đại học Tông Hợp, giáo sư Trần Hữu Tá giáo trình Văn học Việt Nam 1045-1975, tập 2 và trong một số bài phê bình tiêu biểu như của Hà Minh Đức “Tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài”1, của Phan Cự Đệ "Tô Hoài với Miền Tây”2. Trong các chương viết, các bài phê bình này các tác giả tập trung phân tích, nhận định, đánh giá những giá trị Tông quát về nội dung tư tưởng và nghệ thuật thể hiện của tác phẩm và ở mức độ đậm, nhạt đều có nhấn mạnh đến đặc điểm phong cách nghệ thuật của Tô Hoài trong việc thể hiện bản sắc dân tộc miền núi. Đơn cử một vài nhận xét - "Viết về đề tài miền núi, Tô Hoài đã thể hiện khá đậm nét tính chất dân tộc trong nội dung cũng như trong hình thức miêu tả” Hà Minh Đức3 - "Tô Hoài muốn giữ cho mình một phong cách đậm đà màu sắc dân tộc, có khi rất gần với lối kể chuyện dân gian... Lối kể chuyện đó của Tô Hoài được bổ sung bằng những trang miêu tả trang phục, sinh hoạt đầy những chi tiết sinh động của một cây bút có óc quan sát thông minh tinh tế” Phan Cự Đệ.4 - "Tô Hoài có một nhãn quan phong tục đặc biệt nhạy bén, sắc sảo. Trước Cách Mạng tháng Tám, viết về nông thôn, ông đã giúp độc giả biết thế nào là tục tảo hôn, nạn nặc nô đòi nợ, tục lệ giỗ, tế ma chay ... của một vùng ngoại thành Hà Nội Sau Cách Mạng tháng Tám, Tô Hoài đặc hiệt chú ý đến những phong tục độc đáo của các dân tộc miền núi Tây Bắc, đặc biệt là dân tộc Mèo..." Trần Hữu Tá.5 Hà Minh Đức – “Tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài" - Tạp chí Văn học, 2/1969 Phan Cự Đệ - “Tác phẩm và chân dung" - NXB Văn học, H, 1981, trang 98-108 3 Hà Minh Đức – “Tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài" - Tạp chí Văn học, 2/1969 4 Phan Cự Đệ - "Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại" - NXB ĐH-CN, H, 5 Trần Hữu Tá - Tlđd. trang 1 2 8 Ở mức độ sâu hơn khi nghiên cứu, tìm hiểu đề tài miền núi trong sáng tác của Tô Hoài, đáng lưu ý các chuyên luận của Phan Cư Đệ trong "Nhà văn Việt Nam hiện đại. Tập 1”1, của Hà Minh Đức trong lời giới thiệu "Tuyển tập Tô Hoài''2, của Vân Thang trong bài viết "Tô Hoài với đề tài miền núi"3. Ở các chuyên luận này, các tác giả đã dành một dung lượng nhất định cho việc đi sâu tìm hiểu nghệ thuật thể hiện bản sắc dân tộc trong các sáng tác về miền núi của Tô Hoài, nhất là qua hai tác phẩm "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây". Tuy nhiên việc tìm hiểu cũng chỉ nằm trong khuôn khổ nghiên cứu những giá trị chung của tác phẩm, những thành tựu chung của tác giả chứ chưa đưa thành vấn đề nghiên cứu có hệ thống, chuyên sâu. Chúng tôi nghĩ rằng, đi sâu nghiên cứu bản sắc dân tộc miền núi trong các sáng tác của Tô Hoài, đặc biệt là ở “Truyện Tây Bắc" và “Miền Tây" là một công việc có ý nghĩa. Bởi lẽ, tính chất dân tộc, nghệ thuật thể hiện bản sắc dân tộc là một đặc điểm lớn trong sáng tác của Tô Hoài nói chung, đặc biệt là trong các sáng tác về đề tài miền núi. Tìm hiểu vấn đề này, sẽ thấy hết quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật của ông, có thêm cơ sở để khẳng định những cống hiến cùng phong cách nghệ thuật đích thực của ông trong quá trình chiếm lĩnh đề tài này. III./ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN Thật khó có thể đòi hỏi ở luận văn này những phát hiện, khám phá mới. Bản thân đề tài cũng đã nói lên điều ấy. Cái mới ở luận văn này là công phu của người viết trong việc tiếp thu có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của người đi trước, Tông hợp, hệ thống lại thành vấn đề chuyên sâu. Trên phương hướng đó, từ hai tác phẩm "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây", người viết sẽ đi sâu khắc họa bức tranh toàn diện về bản sắc của cuộc sống và con người miền núi Tây Bắc từ trong bản chất truyền thống, trong cuộc đời cũ và trong cuộc đấu tranh giành quyền sống, vươn tới tự do hạnh phúc; đồng thời tìm hiểu những nét độc đáo trong nghệ thuật thể hiện bản sắc miền núi của Tô Hoài, đặc biệt đi sâu khám phá, phân tích những biểu tượng cụ thể của bút pháp trữ tình và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của nhà văn. Phan Cự Đệ - "Nhà văn Việt Nam biện đại, Tập I”, NXB ĐH-CN, H. 1979. trang Tuyển tập Tô Hoài. T 1, NXB văn học. H, 1978, trang 31 3 Vân Thanh – “Tô Hoài với đề tài miền núi", TCVH, số 1/1972 trang 32 - 46 1 2 9 Thực hiện được những yêu cầu trên, bản luận văn sẽ có những đóng góp phần khẳng định những cống hiến xuất sắc của Tô Hoài cho để tài miền núi nó! riêng và cho nến văn xuôi Việt Nam hiện đại hơn nữa thế kỷ qua. Đặc biệt, góp phần làm sáng tỏ một đặc điểm nổi bật trong sáng tác của Tô Hoài là giàu tính dân tộc, đậm sắc thái dân tộc. thành công của luận văn sẽ góp phần khẳng định có một phong cách Tô Hoài ở đề tài miền núi, cũng như trong văn xuôi hiện đại Việt Nam. IV./ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để thực hiện luận văn này, người viết sử dụng hệ thống các phương pháp chung và phương pháp chuyên ngành sau pháp phân tích - Tông hợp Chủ yếu sử dụng kỹ năng - phương pháp phân tích tác phẩm văn học để đi sâu phân tích sự kiện, chỉ tiết, tính cách nhân vật trong hai tác phẩm "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây" và các tác phẩm Hồn quan, trốn cơ sở đó Tông hợp, khái quát, kiến giải vấn để. pháp so sánh Cùng với phương pháp phân tích - Tông hợp, người viết kết hợp sử dụng phương pháp so sánh loại hình - lịch sử nhằm đối chiếu, so sánh tác phẩm "Truyện Tây Bắc" và “Miền Tây" với các tác phẩm khác của Tô Hoài, cũng như các tác phẩm của các tác giả khác viết về miền núi, nhằm khái quát nét chung, phát hiện những nét riêng, độc đáo của Tô Hoài trong quá trình chiếm lĩnh đề tài miền núi, làm rõ những nét đặc trưng trong phong cách nghệ thuật Tô Hoài. pháp thống kê - hệ thống Tìm hiểu vấn đề bản sắc dân tộc là tìm hiểu những nét đặc thù, độc đáo của dân tộc, nên sẽ có phần phải gia công khai thác những yếu tố lặp đi lặp lại của các phương tiện biểu hiện trong nghệ thuật chiếm lĩnh thực tại của nhà văn. Do vậy cần thiết sử dụng phương pháp thống kê -hệ thống. Với phương pháp này, người viết đặc biệt sử dụng để đi sâu khảo sát nghệ thuật sử dụng từ, sáng tạo từ mới của nhà văn. 10 với hệ thống phương pháp cơ bản trên, để thực hiện luận văn này, người viết sẽ khảo sát, vận dụng thêm phần lớn kiến thức về lịch sử, địa lý, dân tộc học để bổ trợ làm nền soi sáng những vấn đề kiến giải. vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận được đặc biệt lưu ý trong thực hiện luận văn này là việc quán triệt và vận dụng một cách thấu đáo đường lối, quan điểm và các chính sách của Đảng về vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc. Lịch sử phát triền của các dân tộc miền núi hơn 60 năm qua luôn gắn liền với các chính sách dân tộc của Đảng. Vì vậy đây chính là điểm tựa quan trọng để xem xét vấn đề dân tộc, bản sắc dân tộc trong văn học. V./ CÂU TRÚC CỦA LUẬN VĂN PHẦN DẪN LUẬN. I./Quan niệm về đề tài II./Lịch sử vấn đề III./Những đóng góp của luận văn IV./Phương pháp nghiên cứu V./Cấu trúc của luận văn PHẨN NỘI DUNG. Chương I Tô Hoài với đề tài miền núi I./Đề tài miền núi trong văn học. II./Quá trình chiếm lĩnh đề tài miền núi của Tô Hoài và vị trí "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây". Chương II Vấn đề bản sắc dân tộc. I./Vấn đề bản sắc dân tộc. II./Tây Bắc miền núi giàu bản sắc. Chương III Bản sắc dân tộc miền núi trong "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây" của Tô Hoài. 11 I./Bản chất cuộc sống và con người Tây Bắc qua "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây". II./Bức tranh sinh động về cảnh đời cùng những điển hình về số phận người nông dân miên núi Tây Bắc trong "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây". III./Bản sắc dân tộc miền núi trong cuộc đấu tranh chống các thế lực thống trị giành quyền sống và vươn tới cuộc đời hạnh phúc qua "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây". Chương IV Nghệ thuật thể hiện bản sắc dân tộc miền núi của Tô Hoài trong "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây". I./Bút pháp trữ tình. II./Nghệ thuật tả phong tục. III./Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. KẾT LUẬN THƯ MỰC 12 PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 TÔ HOÀI VỚI ĐỀ TÀI MIỀN NÚI tài miền núi trong văn học. Miền núi là một bộ phận của đất nước. Đồng bào miền núi là thành viên của cộng đồng dân tộc. Vấn đề dân tộc miền núi từ hàng nghìn năm nay là vấn đề hiện thực của lịch sử, lẽ ra phải được phản ánh và trở thành một đề tài có vị trí xứng đáng trong nền văn học trong các thời đại. Thế nhưng, không phải trong bất kỳ nền văn học nào, vấn đề miền núi cũng được phản ánh và phản ánh đúng đắn. Với chính sách áp bức, khinh miệt các dân tộc nhỏ, từ xưa đến nay, trong nền văn học của bọn thống trị phong kiến và đế quốc, đề tài miền núi hoàn toàn không có chỗ đứng. Lý do đơn giản chúng không muốn đồng bào các dân tộc thiểu số - những người mà chúng coi là lạc hậu, đần độc, man rợ -được quyền bình đẳng về văn hóa. Trước Cách mạng tháng Tám, văn học của bản thân các dân tộc thiểu số hoàn toàn không phát triền, nhất là về lĩnh vực văn xuôi, trừ các sáng tác dân gian như Khan, Mo, Hơmon, truyện cổ, truyện thơ ... Trong văn học công khai, đề tài miền núi cũng không được quan tâm, ngoài một hiện tượng viết về rừng núi cần lưu ý, đó là loại "Truyện đường rừng” tưởng tượng của một số cây viết lãng mạn. Tiêu biểu có thể kể Lan Khai với "Truyện đường rừng" 1940, "Tiếng gọi rừng thẳm" 1939, Thế Lữ-với "Vàng và máu" 1934. Qua các truyện này, ta thấy hiện thực miền núi bị dựng lên một cách sai lạc Khung cảnh núi rừng lúc hiện lên một cách thơ mộng kỳ ảo giả tạo với các cô gái Thổ đẹp mê ly, bí ẩn, lúc là những cảnh ma thiêng, nước độc với những con người man rợ cuồng nhiệt, quái dị ... Một kiểu "Truyện đường rừng” nhằm kích thích óc tưởng tượng viễn vỏng của tầng lớp tiểu tư sản thành thị hồi đó. Phải đến sau Cách mạng tháng Tám, với chính sách dân tộc, chính sách phát triền văn hóa dân tộc đúng đắn của Đảng, đề tài miền núi mới được khôi phục đúng với vị trí của nó trong văn học. Văn học của bản thần các dán tộc anh em được quan tâm phát triền về thơ và truyện thơ có các tác giả Vương Anh Mường, Cầm Biêu, Lò Văn Cậy, Lương Qui Nhân, Vương Trung Thái, Nùa A Sấu, Mã A Lềnh H'Mông, Nô Lô Y Cla Vi Ê Đê, Klay-lăng Ba Na, Lò 13 Ngân Sủn Giáy, Nông Văn Bút Nùng, Nông Quốc Chấn Tày Đặc biệt văn xuôi miền núi được hình thành và ngày càng xuất hiện nhiều cây viết Nông Minh Châu, Vi Thị Kim Bình, Vi Hồng, Hoàng Triều Ân, Hoàng Trung Thu, Hoàng Đình Đạt, Bế Dôn, Nông Viết Toại, Vương Hùng, Triệu Báo, Hoàng Hạc, Chu Thanh Hùng Tày, Lò Văn Sỹ Thái, Nông Trung Giáy, Y Điêng Ê Đê, Tu Tếch Padí, Mã A Lềnh H'Mông Bên cạnh sự phát triền văn học của bản thân các dân tộc miền núi, thành tựu đáng chú ý trong văn học sau cách mạng là sự khôi phục và phát triền đội ngũ nhà văn miền xuôi viết về miền núi. Hiện thực miền núi ngày càng được các nhà văn nhận thức và thể hiện đa dạng trong các tác phẩm. Con người miền núi đã có nhưng đại biểu xứng đáng - trong nhiều tác phẩm tiêu biểu sau cách mạng Tập thơ việt Bắc của Tố Hữu, Nhật ký ở rừng của Nam Cao, Ký sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng, Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Nhật Ký lên Mèo, Sông Đà của Nguyễn Tuân, Rừng Đông của Mạc Phi, Kan Lịch của Hồ Phương, Đồng Bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải, Gió rừng, Xa phủ, Vệ sĩ của quan châu của Ma Văn Kháng, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành và nhiều tác phẩm khác của nhà văn Đỗ Quang Tiến, Bàng Thúc Long, Xuân Cang, Phùng Lê... Trong những thành tựu chung đó, phải đăc biệt kể đến Tô Hoài, nhà văn có công đầu trong việc triền khai và chiếm lĩnh đề tài miền núi, với hai tác phẩm nổi tiếng "Truyện Tây Bắc" giải nhất về tiểu thuyết trong giải thưởng văn học 1945-1955 của Hội Văn nghệ Việt Nam và tiểu thuyết "Miền Tây" giải thưởng Hoa Sen của Hội nhà văn Á - Phi, 1971. trình chiếm lĩnh đề tài miền núi của Tô Hoài và Vị trí "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây" trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Tô Hoài là một trong những nhà văn viết nhiều và viết thành công sớm nhất về đề tài miền núi. Mấy chục năm qua, ông đã để lại cho nền văn học hiện đại nhiều tác phẩm viết về các dân tộc thiểu số anh em, đặc biệt là các dân tộc vùng rừng núi Tây Bắc. Phải chăng nhà văn vốn có duyên nợ với đề tài này ? Tô Hoài có tâm sự rằng hồi còn hoạt động bí mật ở Hội Văn hóa cứu quốc, khi nghe đồng chí Bé trong đơn vị ca ngợi tinh thần dũng cảm của đội nữ du kích ở Ba Bể, ông có ý định viết về sự kiện này, nhưng chỉ bằng tưởng tượng nền không thành công. Sau này trong hồi ký "Một quãng đường", ông đã nhắc lại kỷ nhiệm đó "Đội du kích Ba Bể tưởng tượng của tôi đã thành một kỷ niệm - trong đời viết. Biết đâu nó không phải là ngọn 14 nguồn cho tư tưởng và tình cảm của tôi sau này, khi tôi đi vào cuộc sống miền núi - quê hương thứ hai cho sáng tác của tôi” Cũng như vậy, trong dịp trả lời phòng vấn của Tạp chí văn học nhân kỷ niệm hai mươi năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Tô Hoài nói về quá trình viết về miền núi của mình "Trước Cách mạng, rừng núi hoàn toàn xa lạ với tôi. Lần đầu trong thời kỳ chuẩn bị Tông khởi nghĩa, tiếng vang của chiến khu Việt Bắc dội xuống đồng bằng, qua sách báo bí mật của Đảng và những câu chuyện kể của cán bộ cách mạng, hình ảnh và thực tế cách mạng ấy hấp dẫn tôi, gợi tôi suy nghĩ”1. Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài làm phóng viên báo Cứu quốc, được cử đi vào mặt trận phía Nam, vào Nha Trang, lên chiến trường Tây Nguyên, rồi xuống mặt trân An Khê. Hai năm 1947-1948 ông lên công tác ở những vùng người Dao như Cốc Phương, Vàng Kheo, Pích-Cáy, Khuổi-Buồn trên triền núi Phia-boóc. Suốt thời gian ở đây ông đi sâu vào vùng căn cứ địa Việt Bắc Làm công tác báo chí, tuyên truyền, rồi làm cán bộ địa phương, cùng ăn, cùng ở với đồng bào. Từ những chuyến thâm nhập thực tế đầu tiên ấy, Tô Hoài đã viết nhiều tác phẩm nhằm ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của đồng bào miền núi trong những năm tháng đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, có thể kể đến Lão đồng chí, Lên Củng Sơn 1946, Ngược sông Thao 1949, Đại đội Thăng Bình 1950, Xuống làng 1951... Đáng chú ý nhất trong giai đoạn này là tập truyện ngắn "Núi Cứu quốc" 1948 gồm bốn truyện Đồng chí Hùng Vương, Nà-Lộc, Tào Lường. Công tác xa và hai bút ký "Đường bí mật xuống làng" và "Qua Ba Bể", tập trung phác họa những hình ảnh đầu tiên về cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số ở những triền núi cứu quốc, căn cứ địa của cuộc kháng chiến. Tuy chỉ mới là phác họa, tập truyện đã ghi nhận được những hình ảnh khá chân thực về hiện thực cuộc sống và con người miền núi, hoàn toàn khác hẳn loại "Truyện đường rừng" tưởng tượng của các cây viết lãng mạn trước đây. Tác phẩm đã cho ta hiểu con người miền núi đúng với bản chất của họ là những con người thật thà, chất phác, thủy chung và có lòng tin tưởng mãnh liệt ở cách mạng. Những nhân vật Hùng Vương, Bảo, Sìn đã để lại ấn tượng sâu sắc khó quên về người cán bộ miền núi nhiệt tình, tận tụy trong công tác cách mạng. 1 Tô Hoài trả lời phỏng vấn TCHV số 10/1965, trang 60 15 Tuy có những thành công nhất định, ở "Núi Cứu quốc" cũng chỉ mới đánh dấu quá trình chuyển biến bước đầu của Tô Hoài - một quá trình chuyển biến hãy còn dang dở. Trong Núi Cứu quốc và những tác phẩm ngày đầu cách mạng của ông, từ nội dung phản ảnh cho đến ngôn ngữ biểu hiện còn mang khá nhiểu dấu vết của chủ nghĩa tự nhiên. Phản ánh hiện thực miền núi, ông thiên về khai thác, miêu tả cái đẹp tự nhiên. Nhìn người miền núi ông còn nhìn với con mắt của một kẻ xa lạ say ngắm như để tìm kiếm trong đó một sự kỳ thú. Sau này trong "Những kinh nghiệm viết văn của tôi" Tô Hoài đã thú nhận nhược điểm của mình hồi đó là "quả chuông lạ, thích lạ và khoe chữ”1. Tất nhiên đó là một hạn chế không thể tránh khỏi. Tô Hoài chưa thể nào có được sự hiểu biết sâu sắc về các dân tộc miền núi khi chỉ mới tiếp xúc lần đầu tiên. Phải đến 1953, tập "Truyện Tây Bắc" ra đời mới thật sự đánh dấu bước ngoặt quyết định của Tô Hoài trong quá trình chiếm lĩnh đề tài miền núi và chuyển biến từ một nhà văn hiện thực phổ phán sang một nhà văn hiên thực xã hội chủ nghĩa. "Truyện Tây Bắc" là tác phẩm đầu tiên viết về miền núi thành công nhất của Tô Hoài nói riêng và của văn học sau 1945 nói chung. Đó là kết quả của quá trình chuyến biến đến mức độ chín muồi về tư tưởng tình cảm của nhà văn trong thực tiễn cuộc sống kháng chiến ở miền núi. Đó công là kết quả của một quá trình nhận thức sâu sắc, thông qua hành động thực tiễn đường lối giai cấp và chính sách dân tộc của Đảng. Tô Hoài đã kể về thực tế sáng tác "Truyện Tây Bắc" "...Năm 1952 tôi theo bộ đội chủ lực tiến quân vào miền Tây, tham dự chiến dịch giải phóng Tây Bắc các đơn vị quân ta qua sông Thao, đánh tan nhiều đạo quân và đồn bốt địch, cho đến lúc vượt sông Đà, thì đã giải phóng được một giải đất rộng lớn phía hữu ngạn, trong đó bao gồm nhiều khu du kích của các dân tộc anh em đã chiến đấu ròng rã nhiều năm giữa lòng địch ... Cái kết quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng Ả Phủ tiễn tôi ra khỏi dốc núi làng Tà Sua, cùng vẫy tay gọi "chéo lù!chéo lù" trở lại!trở lại... hai tiếng "trở lại !trở lại" chẳng những nhắc tôi có ngày trở lại mà còn phải đem "trở lại" cho những người thương ấy một kỷ niệm tấm lòng mình, một cái gì làm hiển hiện lại cả cuộc đời người Mèo trung thực, chí tình, dù gian nan thế nào bao giờ cũng đợi cán bộ, đợi bộ đội, bao giờ cũng mong anh em trở lại. Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc 1 Tô Hoài - "Những kinh nghiệm viết văn của tôi", NXB VH, H. 1979 16 trong tâm trí tôi...Ngay cho tới hôm nay tôi vẫn bổi hồi nhớ như in. Đó là một ám ảnh mạnh mẽ thúc đẩy tôi sáng tác. Ý thức tha thiết với đề tài là một lẽ quyết định, vì thế tôi viết Truyện Tây Bắc” 1. Sau "Truyện Tây Bắc”, Tô Hoài vẫn tiếp tục thâm nhập thực tế miền núi trong những chuyến đi công tác và sáng tác. Tuy nhiên trong những năm đầu sau ngày hòa bình lập lại ông không viết được tác phẩm nào đáng kể. Nhất là trong giai đoạn miền Bắc đi vào cải tạo Xã hội chủ nghĩa. Cuộc sống mới và những yêu cầu mới của cách mạng có làm ông bỡ ngỡ ? ông bị phê phán là mơ hồ trước cuộc đấu tranh giai cấp. Trong bài "Tổ chức phát triển lực lượng sáng tác trước nhất" báo Văn số 13, 02/08/1957 và trong bài "Góp phần ý kiến về con người thời đại" báo Văn số 22, 04/10/1957, Tô Hoài đã nhấn mạnh việc thúc đẩy tổ chức, phát triển sáng tác, không chú trọng đấu tranh tư tưởng trong văn nghệ, "không nên dán thuốc cao khi chưa có nhọt đấu tranh". Chính trong giai đoạn này tiểu thuyết "Mười năm" ra đời, chịu những đòn mổ xè, phê bình quất mạnh. Sau này trong hồi ký "Cát bụi chân ai"2 ông đã lạnh lùng nhắc lại sư kiện này như một kỷ niệm đau xót khó quèn. Sau cuộc đấu tranh "Nhân văn giai phẩm", tư tưởng Tô Hoài chuyển biến mạnh. Tuy nhiên việc nhận thức cái mới trong sáng tác của ông có phần sút hẳn so với thời kỳ đầu cách mạng và trong kháng chiến chống Pháp. Trong tình trạng đó, những sáng tác về miền núi của ông thời kỳ này cũng không có gì nổi bật, ngoài một số bút ký được tập hợp chung trong tác phẩm "Vỡ tỉnh" 1962. Lại phải đến năm 1967, tiểu thuyết "Miền Tây" ra đời cắm cái mốc thứ hai, đánh dấu một bước tiến mới của nhà văn trong quá trình chiếm lĩnh đề tài miền núi. So với những tác phẩm trước đó, "Miền Tây" đã thể hiện một cách toàn diện và quy mô hơn chủ đề này. Viết "Miền Tây", một lần nữa Tô Hoài thể hiện rõ tấm lòng yêu mến, thủy chung đối với đồng bào ruột thịt ở vùng cao. Từ khi hòa bình lập lại, trở về thành thị miền xuôi, nhưng trong lòng ông luôn nhớ về Tây Bắc. Năm 1959 Tô Hoài lại về Châu Mộc, Châu Thuận, Châu Tuần Giáo. Từ năm 1964-1966 ông lại nhiều lần trở lên Tuần Giáo, Hà Giang, lên cao nguyên Đồng Văn, Mèo Vạc, Phó Bảng, Văn Chải thăm lại tất cả những người anh em vùng cao. Trong hồi ký "Cát bụt chân ai" Tô Hoài đã dành trọn chương bốn, để ghi lại những ngày trở lại vùng cao yêu dấu của 1 2 Một số kinh nghiệm viết văn của tôi - Sđd, trang 70-71 Tô Hoài "Cát bụi chân ai", hồi ký, NXB Hội Nhà văn H. 1992 17 mình. "Miền Tây" chính là kết quả được ấp ủ, thai nghén trong suốt thời gian dài của những chuyến hồi hương tình nghĩa ấy. Sau "Miền Tây" Tô Hoài vẫn tiếp tục viết về miền núi. Nhưng những thành công chủ yếu của ông trong giai đoạn sau này là những tác phẩm viết về người thật, việc thật, về những người anh hùng miền núi, tiêu biểu là "Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ". "Vừ A Dính" Điểm qua quá trình sáng tác vể miền núi của Tô Hoài, có thể rút ra một nhận xét cơ bản Gần năm mươi năm qua, những thành tựu chủ yếu của Tô Hoài trong sáng tác, có một phần lớn tập trung ở đề tài miền núi, trong đó “Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây" là những tác phẩm xuất sắc nhất, có giá trị như những cột mốc đánh dấu những bước phát triền quan trọng về tư tưởng và nghệ thuật của ông trong quá trình chiếm lĩnh phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa. Từ trước đến nay, tìm hiểu nhà văn Tô Hoài với tư cách là một nhà văn cách mạng, phần căn bản nhất là tìm hiểu đề tài miền núi. Tìm hiểu đề tài miền núi trong sáng tác của Tô Hoài căn bản là tìm hiểu giá trị "Truyện Tây Bắc" và "Miền Tây". 18 CHƯƠNG 2 VẤN ĐỀ BẢN SẮC DÂN TỘC đề bản sắc dân tộc và sự thể hiện bản sắc dân tộc trong văn học Nước ta cũng như nhiều nước trẽn thế giới bao gồm nhiều dân tộc anh em. Để nhận diện, phân biệt một cách tổng quát người ta gọi chung là dân tộc thiểu số và dân tộc đa số. Giữa các đồng tộc người này có địa bàn cư trú, cùng những điều kiện sinh hoạt, làm ăn khác nhau. Do vậy, trải qua quá trình lịch sử lâu dài đã dần dần hình thành nên ở mỗi dân tộc những nét bản lĩnh, bản sắc riêng. đề bản sắc dân tộc Xưa nay có khá nhiều quan niệm xung quanh vấn đề bản sắc dân tộc nói chung và tính dân tộc trong văn học nói riêng ; tựu trung có mấy quan niệm lớn - Quan niệm thứ nhất cho rằng bản sắc dân tộc thể hiện chủ yếu ở những hình thức đặc thù, ở những phương tiện miêu tả, diễn dạt. Nó là những cái thật độc đáo, khác biệt mà chỉ dân tộc đó mới có, ví dụ như trang phục - cách ăn mặc ; nhạc cụ dân tộc, nghệ thuật dân gian, đặc biệt là ngôn ngữ "Tính dân tộc thể hiện trước hết là ở ngôn ngữ, ngôn ngữ là đặc trưng chủ yếu của một dân tộc” "Khái niệm về tính dân tộc ở đây gần giống như khái niệm về ngôn ngữ”1 - Quan niệm thứ hai, đối lập với quan niệm thứ nhất, cho rằng bản sắc dân tộc thể hiện chủ yếu ở các đặc thù bên trong và cũng chỉ dân tộc mình mới có phong tục, tập quán, nếp sống, nếp nghĩ "Dân tộc là kết quả của sự gom góp tất cả các nết hay mà dân tộc ấy sẵn có"2 - Quan niệm thứ ba, phổ biến và phức tạp nhất, đi tìm bản sắc dân tộc ở tám lý dân tộc, tức là những giá trị tinh thần của một dân tộc. "Nhưng yếu tố chính quyết định bản sắc dân tộc, tính dân tộc nói chung cũng như tính dân tộc trong văn nghệ là tâm lý dân tộc” hoặc "Tính 1 2 Mai Thức Luân - Thử bàn về tính chất dân tộc trong văn nghệ, Tạp chí Văn nghệ số 53, 10/62 Lan Khai -Tính cách Việt Nam trong văn chương, Tạp chí Tao đàn, số 4, NXB Tân dân, 1939 19 chất dân tộc biểu hiện cấu tạo tâm lý dân tộc là tổng hợp các đặc điểm tinh thần của dân tộc, hình thành dần trong quá trình phát triển của dân tộc” 1 Điểm qua các quan niệm trên, ta thấy mỗi quan niệm đều có phần "hạt nhân hợp lý” của nó. Đúc rút, tổng hợp phẩn "hạt nhân hợp lý" trong các quan niệm ấy ta có một cách hiểu hoàn chỉnh về vấn đề bàn sắc dân tộc. Nói đến bán sắc dán tộc là nói đến "những nét đặc sắc, những nét truyền thống, những giá trị vật chất, tinh thần và văn hóa mà mỗi dân tộc tự xây đắp nên trong quá trình phát triển lâu dài của lịch sử dân tộc, trong công cuộc đấu tranh bền bĩ để giành quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do, chống sức thù địch của thiên nhiên và xã hội - những đức tính đúc nên cá tính và danh dự của dân tộc”2 Bản sắc dân tộc bao gồm nhiều nhân tố. Có nhân tố thể hiện ra ở thế giới bên ngoài như cách ăn mặc, cử chỉ, dáng điệu, lời nói, phong tục, tập quán và có những nhân tố thể hiện qua tâm lý, tính cách, qua sắc thái tình cảm tin yêu, căm ghét, giận dữ, buồn vui ở mỗi con người. Nói chung, bản sắc dân tộc - nói như Đồng chí Phạm Văn Đồng là "những nét riêng biệt, độc đáo cửa một dân tộc thể hiện trong nền văn hóa, nghệ thuật, trong phong tục, tập quán, trong đời sống muôn màu của dân tộc đó"3 thể hiện bản sắc dân tộc trong tác phẩm văn học Ta biết rằng trong tác phẩm văn học, tính chất dân tộc, bản sắc dân tộc luôn thể hiện xuyên thấm trong tất cả các yếu tố từ hình thức đến nội dung. "Có thể nói có bao nhiêu yếu tố trong tác phẩm là có bấy nhiêu chỗ để tính dân tộc thể hiện"4 ; trong đó nổi rõ ở những yếu tố sau Thứ nhất ở đề tài tác phẩm Nhà văn vĩ đại Nga Pu-skin cho rằng "mỗi dân tộc có vô vàn phong tục, tập quán riêng... và khí hậu, chế độ xã hội, tín ngưỡng tạo cho mỗi dân tộc một diện mạo đặc biệt diện mạo ấy ít hay nhiều được phản ảnh trong tấm gương thơ ca"5. Cho nên ngay ở phạm vi đề tài nhà văn hướng tới, các yếu tố lịch sử, địa lý, văn hóa của dân tộc ... và 1 Nguyễn Hồng Phong -Tìm hiểu tính cách dân tộc, NXB Khoa học, H, 1963, trang 20. Nguyễn Khánh Toàn -Lời tựa "Về tính cách dân tộc trong văn học" của Thành Duy, NXB KHXH, H, 1982 3 Phạm Văn Đồng -Bài nói tại hội nghị kỷ niệm lần thứ 100 ngày thành lập Viện Dân tộc học. 4 Cơ sở lý luận Văn học. Tập 1, NXB ĐH & THCN, H, 1980, trang 246 5 Pu-Skin toàn tập, NXB Viện hàn lâm Liên Xô, M, 1949, trang 40 2 20
VOV5 - Tô Hoài là một trong những tác gia lớn nhất của thế kỉ 20. Ông thuộc thế hệ vàng thế hệ sinh năm 20, từ năm 1920 ngược về trước. Đó là thế hệ vàng của văn chương hiện đại, làm nên mùa gặt ngoạn mục nhất của văn học thế kỉ 20 - làm nên mùa màng 1930-1945, cùng với Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Xuân Diệu, Huy Cận. Ông cũng là người hiếm hoi nhất còn lại của thế hệ ấy, cùng với nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh. Nhà văn Tô Hoài Ảnh An Thành Đạt Nghe nội dung chi tiết tại đây Nhà văn Tô Hoài, tác giả của cuốn sách “Dế mèn phiêu lưu ký” khiến bao thế hệ bạn đọc Việt Nam say mê, đến với văn chương từ thuở thanh niên. Sự nghiệp văn chương của Tô Hoài bắt đầu từ những tác phẩm in trên Hà Nội tân văn và Tiểu thuyết thứ bảy vào cuối những năm 30 của thế kỷ 20. Năm 1938, Tô Hoài tham gia Hội Ái hữu công nhân rồi tham gia phong trào Thanh niên phản đế. Năm 1943, ông gia nhập tổ Văn hóa cứu quốc đầu tiên ở Hà Nội. Đây chính là thời gian ông xuất bản cuốn truyện dài nổi tiếng “Dế mèn phiêu lưu ký”.Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nhà văn Tô Hoài làm báo Cứu quốc, Chủ nhiệm tờ Cứu quốc Việt Bắc, chủ bút Tạp chí Cứu quốc. Năm 1957, được bầu làm làm Tổng Thứ ký Hội Nhà văn Việt Nam. Từ 1958 đến năm 1980, tiếp tục tham gia Ban Chấp hành, Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Từ 1966 – 1996, ông là Chủ tịch Hội văn nghệ Hà Nội. Nhà văn Hoàng Quốc Hải khâm phục phong cách viết văn của Tô Hoài “Trong những chuyến đi thực tế vùng Tây Bắc, nhà văn Tô Hoài luôn có tác phong vừa nghe người ta nói, vừa xem họ làm, vừa sinh hoạt với họ, đồng thời còn ghi chép lại. Có những đoạn ông ghi lại tiếng chim gáy trong rừng sâu như thế nào, tiếng chim gáy ở đồng bằng như thế nào. Hay như tiếng chim nuôi trong lồng, nhốt trong thành phố thế nào. Những đoạn ghi chép ấy ông đều đọc cho chúng tôi nghe. Mỗi cái đều có sự tinh tế khác nhau. Từ đó mới thấy nhà văn Tô Hoài làm việc rất tỉ mỉ và những điều ông đưa ra làm cho chúng ta tin được”. Bên cạnh những đề tài viết về miền núi Tây Bắc, Việt Bắc cho đến Hà Nội, nói đến Tô Hoài, người đọc nhớ ngay đến Tô Hoài của những sáng tác về Hà Nội, Tô Hoài với miền núi Tây Bắc, Việt Bắc, Tô Hoài của hồi ký tự truyện..., và những sáng tác cho thiếu nhi. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn Tô Hoài là “Dế Mèn phiêu lưu ký”, tác phẩm đã gắn liền với bao thế hệ thiếu nhi Việt Nam. Bà Lê Hương, người yêu thích tác phẩm của nhà văn Tô Hoài, cho biết “Tác phẩm Dế mèn phiêu lưu ký dẫn dắt tuổi thơ của tôi đi xa lắm. Ngày đó đâu có nhiều hình ảnh trên ti vi nhưng qua tác phẩm thì chúng tôi quan sát đất nước Việt Nam tươi đẹp như thế nào, rộng lớn ra làm sao, thân thương ra sao”. Không chỉ thu hút bạn đọc trong nước, cuốn truyện hấp dẫn này còn được dịch ra nhiều thứ tiếng và được bạn bè quốc tế cả trẻ em và người lớn đón nhận nồng nhiệt như những truyện cổ tích kinh điển của nhà văn hào Andecxen, của anh em nhà Grim…Năm 2006, Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đã trao tặng nhà văn Tô Hoài bằng chứng nhận “Nhà văn Tô Hoài với tác phẩm Dế mèn phiêu lưu ký được dịch nhiều thứ tiếng nhất”.Tính đến nay, “Dế mèn phiêu lưu ký” đã được dịch ra nhiều thứ tiếng Pháp, Nga, Đức, Trung Quốc, Nhật Bản, Ba Lan, Nam Tư, Rumani, Cuba, Hàn Quốc, Lào, Campuchia, Thái Lan… Một tác phẩm nổi tiếng khác của nhà văn Tô Hoài là “Vợ chồng A Phủ” - truyện ngắn xuất sắc của Tô Hoài viết về đề tài miền núi Tây Bắc được in trong tập “Truyện Tây Bắc”1953.Tác phẩm đã thể hiện một cách xúc động cuộc sống tủi nhục của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách phong kiến và thực dân, được giải nhất về truyện, kí đồng hạng với Đất Nước đứng lên của Nguyên Ngọc giải thưởng của hội Văn Nghệ Việt Nam 1954-1955. Giáo sư văn học Phong Lê đánh giá “Nói về Vợ chồng A Phủ là nói về giá trị khởi đầu của nó trong văn học kháng chiến, nằm trong bộ ba truyện để thành “Truyện Tây Bắc”. Tô Hoài trong những năm đầu thâm nhập vào kháng chiến, viết được tác phẩm đầu tiên của văn học kháng chiến và xây dựng được mẫu hình của một tầng lớp người.”Truyện Tây Bắc” cùng với “Đất nước đứng lên” là những tác phẩm đặc sắc của chặng đường văn học kháng chiến 1945-1954”. Cùng với “Dế mèn phiêu lưu ký”, “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài cũng là tác phẩm được đưa vào giảng dạy trong chương trình sách giáo khoa phổ thông và được chuyển thể thành kịch bản điện ảnh. Tính đến nay, sau hơn 60 năm lao động nghệ thuật, Tô Hoài đã có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại truyện ngắn, truyện dài kỳ, tiểu thuyết, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác. Tô Hoài được đánh giá là cây đại thụ trong khu rừng văn học hiện đại Việt Nam. Ở mọi thể loại sáng tác, Tô Hoài cũng tạo lập được một giá trị riêng, một gương mặt riêng không thể nhòe lẫn và để lại nhiều dấu ấn với những tác phẩm có giá trị. Nhà văn Tô Hoài được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật đợt 1 - 1996 cho các tác phẩm Xóm Giếng, Nhà nghèo, O chuột, Dế Mèn phiêu lưu ký, Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Mười năm, Xuống làng, Vỡ tỉnh, Tào lường, Họ Giàng ở Phìn Sa, Miền Tây, Vợ chồng A Phủ, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ. Năm 2010, ông còn được trao Giải thưởng Lớn - Giải thưởng Bùi Xuân Phái - Vì tình yêu Hà Nội. Nhà văn Tô Hoài, cây đại thụ cuối cùng của thế hệ nhà văn thành danh trước Cách Mạng tháng 8 của Việt Nam, vừa từ trần ngày 6/7 tại Hà Nội, thành phố ông sinh ra, lớn lên và gắn bó hầu như suốt cuộc đời mình. Hơn 70 năm cầm bút, nhà văn Tô Hoài đã sáng tác hơn 200 đầu sách đủ thể loại từ tiểu thuyết, truyện vừa, bút ký, ký sự, truyện ngắn, hồi ký, tự truyện đến tiểu luận phê bình, truyện viết cho thiếu nhi. Trong mỗi tác phẩm, ông đều để lại dấu ấn riêng./.
Miền Tây GIỚI THIỆU CHUNG Tác giả Tô Hoài Thể loại Tiểu thuyết, Văn học Việt Nam Nguồn Sưu tầm Trạng thái Hoàn thành NỘI DUNG TRUYỆN Trong làng văn học Việt Nam rất hiếm có nhà văn nào nhận được sự yêu thương, mến mộ từ nhiều thế hệ độc giả khác nhau như nhà văn Tô Hoài. Nếu các bạn nhỏ biết đến ông như một người bạn dí dỏm và đáng yêu qua kiệt tác Dế mèn phiêu lưu ký và series truyện ngộ nghĩnh về loài vật. Thì độc giả lớn tuổi biết đến ông như một cây đại thụ của làng văn. Được viết năm 1965, Miền Tây là tác phẩm tiếp nối cho đề tài về vùng đất Tây Bắc “để thương để nhớ” cho Tô Hoài trong suốt cuộc đời cầm bút của mình. Tô Hoài đã dành cho cuốn tiểu thuyết những nét vẽ chân thật và sinh động nhất. Với hình ảnh những người con đất Phiềng Sa tình nghĩa. Nó đã sống qua hết những vất vả, đau thương, đấu tranh và dựng xây. Khai thác nhiều tư liệu lịch sử, chính trị, quân sự, tác phẩm đã tạo nên những bức tranh đối lập xưa và nay trong cuộc sống, số phận con người Phiềng Sa. cập nhật audio truyện mới và hot nhất hiện nay. Các bạn muốn nghe truyện gì tiếp theo 🤔? Hãy đánh giá 5* và để lại tên truyện trong comment cho chúng tớ biết nhé! ^^ Mời các bạn nghe audio truyện full được sưu tầm bởi ️️ Truyện đã được up hoàn chỉnh. Chúc các bạn nghe truyện vui vẻ. 💛🧡 Cảm ơn các bạn đã lắng nghe và ủng hộ chúng tôi 🧡💛 📧 Email góp ý info 💌 Facebook
tiểu thuyết miền tây của tô hoài